Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2014

trang 5

Thầy cô có nên gọi học trò là ‘con’?

- Ủng hộ cách xưng hô phổ biến “cô/thầy-em” nhưng từ những người làm ngôn ngữ đến nhà quản lí, lãnh đạo hay giáo viên đều cho rằng không thể cứng nhắc chỉ dùng một kiểu xưng hô trong nhà trường.

Có những...

Có những chuyện cũ đã qua không nhất thiết phải kể cho mọi người nghe.
Có những sự đau khổ cũng không nhất thiết để mọi người biết.
Có những tâm tình giữ trong lòng, không nhất thiết phải bày tỏ.
Có những tổn thương theo thời gian sẽ dần lành lặn.
Có những thiệt thòi khi đã qua, suy nghĩ thông suốt cũng sẽ trở lại bình thường.
Có những khi đau lòng, nhẫn nhịn vài lần sẽ thành thói quen.
Thật ra trong cuộc sống, không phải những lúc đau khổ nào cũng có thể la hét, và không phải tình yêu nào cũng đều được thổ lộ.

2.600 sinh viên có nguy cơ bị trục xuất khỏi Anh

TTO - Bộ Nhập cư Anh hôm 30-8 tuyên bố sẽ có khoảng 2.600 sinh viên nước ngoài bị trục xuất khỏi nước này sau khi họ phát hiện nhiều trường hợp không đủ trình độ tiếng Anh, hay bỏ học và không có giấy phép lưu trú.

Bão số 5 - “kỷ lục buồn” ở Hà Nội (20/08/2012)

Người Hà Nội lâu nay đâu lạ gì cảnh phố thành sông mỗi khi mưa bão về, cảnh bà con đổ xô đi bắt cá giữa đường phố Thủ đô, cảnh mất điện và giá thực phẩm lên chóng mặt. Gọi đúng tên, đó là những thảm cảnh. Nhưng đáng sợ là cơn bão số 5 này đổ bộ vào Quảng Ninh ngày 17-8, "lướt qua” Hà Nội có 3 ngày, giá thực phẩm chưa kịp lên, mà gần 200 cây xanh gãy, đổ, bật gốc, trong đó có không ít cây cổ thụ lâu năm làm cho một người tử vong, một số người hút chết...

Máy nước công cộng

Từ những năm 1980 trở về trước, Hà Nội còn nhiều vòi nước máy công cộng đặt tại một số đường phố, trong các ngõ xóm và khu tập thể. Đó là Hà Nội của cái thời có 4 quận nội thành, mấy chục vạn dân.
Đó là cái thời Hà Nội chống Mỹ. Chỗ đặt vòi nước công cộng là một khoảng đất được láng xi măng cẩn thận, có chỗ thoát nước. Mỗi một chỗ như vậy thường có 2 vòi nước, quay ra hai hướng.
Người Hà Nội lúc đó có thói quen gánh nước. Đôi thùng bằng tôn, to nhỏ tùy theo sức của từng nhà. Đôi móc xích và cái đòn gánh. Nhiều nhà ở gần còn mang quần áo ra giặt ở ngay máy nước, cho tiện. Vào lúc đêm khuya, có người còn tắm luôn ở đấy.

Những vần thơ nghe quen quen

"Sóng sông Hồng vẫn xô bờ hát mãi
Đỏ niểm tin là khúc khải hoàn ca"

Hình ảnh đội Thể Công và Tuyển QĐ những năm 1970-80 (KQ, Thành Voi)

Mời các bạn xem lại hình ảnh của hơn 30 năm trước.
Đội hình chính sau 1975 trên sân Cột Cờ.
Thủ môn: Khánh; Trung vệ: Thiêm, Giáp; Hậu vệ biên: Nguyễn Duy Phú (mèo), Đỗ Hải Bình.
Hàng giữa (Tiền vệ): Phan Văn Mỵ, Vũ Mạnh Hải.
Hàng trên (Tiền đạo): Luân, Cầu (Tây), Thêu, Thế Anh.

Đội hình năm 1969: Tập huấn tại Hungary.
Hàng đứng (trái sang): Thêu, Nhật, Dũng, Thái, Nghị, Phú, Pháp, HLV Hứa Tấn Hỷ.
Hàng giữa: Hải, Mỵ.
Hàng ngồi (trái sang): HLV, Cảnh, Chi (cố), Hưng (già), Cầu (Tây), Đẻn; HLV Nguyễn Văn Nhi.


Đội hình Thể Công đá với Cảng SG 1979. Trận đó thắng với tỷ số 2-1.

Hàng đứng (trái sang): HLV Ngọc Chi, Đỗ Văn Phúc, Hải (duối), Đức (khổ),
Giáp, Khánh, Cao Cường, Thành "voi", Tuấn "thần", Hùng, HLV Bính.
Hàng ngồi (trái sang): Chi (cố), Đẻn, Lâm, Dũng (mè), Mỵ, Viết Cường,Vũ Mạnh Hải, Nhật.

Thể Công Vô địch quốc gia 1981.
Hàng đứng (trái sang): HLV Huế, Khắc Cường, Đỗ Văn Phúc, Khắc Dũng, Thành "voi",
Khánh, Dũng (gôn dự bị), Hậu, Hùng, Hải, HLV Sỹ Hiển.
Hàng ngồi (trái sang): Tiến "A Sử", Tiến Lâm, Cao Cường,
Ninh "choắt", Đẻn, Mỵ, Quang (nhẻm), Hương (cốm).

Tuyển QĐ 1981.
Hàng đứng (trái sang): HLV Bền, Hòa (QKTĐ), Thành béo, Viết Cường, Khắc Cường,
Tuấn thần,Tuấn (QK3), Mạnh Cường, Long (Sông Cấm), Đông (QK Hữu ngạn),
Hương cốm, Hưng (QKTĐ), Ninh choắt, Dũng gấu - HLV Sỹ Hiển.
Hàng ngồi (trái sang): Phúc cóc, Lâm, Thái (QK Việt Bắc), Khắc Dũng(QKTĐ),
Quang nhẻm, Khánh, Dũng, Thành voi, Hùng, Đẻn, Cao Cường, Đoàn Ngọc Tuấn.

Hà nội những năm đổi mới

Sắc màu của thời kỳ Đổi Mới được thể hiện qua những cửa hàng đầy ắp hàng hóa, những chiếc xe máy xuất hiện trên đường phố ngày càng nhiều…

Những "siêu xe" của thời các đại gia mũ cối

Bây giờ nhắc lại, không ít người trẻ tuổi sẽ phì cười về “đẳng cấp ăn chơi” của các đại gia mũ cối (thời bao cấp, người có tiền mới đội mũ cối).
Nhưng, những chiếc “siêu xe” thời ấy lại là sự ghi dấu cả một giai đoạn lịch sử của đất nước.

Bài viết về thời bao cấp

Bạn ạ! Dùng tem phiểu vẫn phải dùng tiền chứ, nhưng giá rẻ hơn. Tuy vậy chỉ có chừng thôi, tối thiểu. Ngày ấy dân thường Hà Nội cũng có tem phiếu, nhưng tiêu chuẩn thấp hơn người đi làm. Đi làm cũng phân ra nhiều cấp độ, trực tiếp sx khác với lao động gián tiếp ở văn phòng. Sinh viên các trường chuyên nghiệp cũng có tem phiếu như người đi làm. Chỉ có dân nông thôn thì chẳng có gì, khổ hơn nhiều. Rồi có những cửa hàng dành riêng cho cán bộ cao cấp với bìa C trở lên, trong đó bán đồ ngon và dồi dào hàng nên chả phải chen lấn như ở ngoài. Nói chung đó là biện pháp tình thế của thời chiến.
Tôi còn nhớ hè năm 1972, khi Mỹ ném bom miền Bắc trở lại, muối khan hiếm nên mỗi người chỉ được mua mỗi lần 1 cân mà xêp hàng dài nhằng. Nhà nào đông con đang tuổi lớn thì bao giờ cũng thiếu gạo. Đứa trẻ được sinh ra là đi làm giấy khai sinh ngay để được tiêu chuẩn. Trẻ em cú 2 năm đựoc tăng thêm 1 kg gạo. Đi học thì giấy vở đen thui còn dính trấu và rơm, 1 mặt nhám sì. SGK hai ba đưa chung 1 quyển. Được cái hồi đó sgk không thay đổi liên tục như bây giờ nên bọn tôi mua lại sách cũ hoặc anh chị để lại cho em. Mùa đông, có nhiều đứa chỉ cáo vài cái áo thường mặc chồng lên nhau cho đỡ rét.
Năm 1977, khi bên ngoài hết viện trợ cho ta, đất nước khó khăn vô cùng, phải ăn độn 70% trong khẩu phần. Tôi còn nhớ nhà tôi có sổ ăn bánh mì, 4 người 4 cái trong các ngày chẵn. Bánh mì to lắm 225 gam, nhưng làm men thủ công ủ chua nên cái ruột chua loét ghét lắm giá có 1 hào 1 cái, néu bán cũng được gần 1 đồng nên nhà tôi thườ bán đi rồi ăn phở mậu dịch chỉ 5 hào. Phở 5 hào chỉ lưng nửa bát, nhưng giá bình dân nên sáng và trưa đông lắm, xếp hàng dài. Còn bên kia là phở 1 đồng, tiền gấp đôi nên khách ngồi tại chỗ có người bưng tới và bát đầy đặn hơn. Thương tâm nhất là những người ăn xin dạt ở quê ra. Họ đứng ngoài cửa chờ khách ăn xong là vào dồn lại và ngòi ăn tự nhiên. Toi từng chúng kiến có người khách mới nahr cục bầy nhầy ra bàn, thế là ông kia hốt ngay cho vào mồm ngon lành như sợ đứa khác lấy mất. Ăn xin bây giờ còn lâu nhé! Họ chỉ lấy tiền thôi, và ra quán gọi món ngon hơn mình nhé! Thời đó nhiều ngừoi đói vào giáp hạt, họ kéo nhau ra HN xin thương lắm. Họ đi cả nhà có cả cụ già móm mém hết răng. Người ta cho cơm nguội mà cụ ăn ngon lành thương lắm. Sau vài năm nữa, sang tập kỷ 80 họ di dân tự do vào Nam rất đông mong thoát nghèo ở vùng đất mới.
Nói về thời đó nói chung là nghèo, nhưng người ta sống tình cảm hơn, ít tranh giành nhau hơn.

Sửa bởi Taladanviet : 03-01-2012 lúc 11:51 AM Lý do: sai

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét